Đó là khẳng định của Bộ Trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh khi đánh giá về công tác vận hành các hồ chứa thủy điện trong thời gian qua.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị – Ảnh: Đình Dũng |
Ngày 17/3, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị về vận hành an toàn, hiệu quả hồ chứa thủy điện tại TP. Đà Nẵng. Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, hiện cả nước có 330 công trình thủy điện với tổng công suất 17.615 MW đang vận hành. Năm 2016, sản lượng điện sản xuất từ thủy điện đạt 63,73 tỷ kWh, chiếm 32% tổng sản lượng điện năng của cả nước. Đây là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, giá thành rẻ hơn so với các nguồn khác.
Cũng theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, các nhà máy thủy điện đã tạo ra nhiều lợi ích tổng hợp: Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, các hồ chứa của công trình thủy điện với tổng dung tích khoảng 56 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa trên cả nước, đã góp phần quan trọng vào việc cắt/giảm/làm chậm lũ cho hạ du. Vào mùa cạn, các hồ này cung cấp nước cho khu vực hạ du góp phần vào việc bảo đảm an ninh lương thực và trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, các hồ đập thủy điện cũng tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cho vùng hạ du đập nếu các thủy điện vận hành không an toàn. Do vậy, rất cần các cơ quan quản lý chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thường xuyên, cũng như các chủ đập cần chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong quản lý, vận hành.
“Bộ Công Thương luôn luôn cầu thị, lắng nghe các góp ý để có thể vận hành công tác quản lý tốt hơn. Tuy nhiên, chúng tôi sẵn sàng phối hợp nhưng không thể làm thay” – Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định.
Các nhà máy thủy điện do EVN quản lý đã thực hiện tốt quy trình vận hành hồ chứa thủy điện – Ảnh: Huyền Thương |
Theo ông Trần Hữu Lượng – Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), hiện nay, trong công tác quản lý, vận hành công trình thủy điện đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật; cụ thể có 5 Luật và Pháp lệnh, 6 Nghị định, 4 Thông tư và nhiều quy chuẩn tiêu chuẩn khác.
Trong công tác quy hoạch, quản lý chất lượng công trình xây dựng thủy điện, thời điểm trước năm 2013 vẫn còn nhiều bất cập, do sự phân cấp quản lý. Theo đó, Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch các dự án thủy điện (DATĐ) từ 30 MW trở lên và DATĐ bậc thang, UBND cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch DATĐ nhỏ (dưới 30 MW).
Chất lượng quy hoạch thủy điện nhỏ bộc lộ khá nhiều hạn chế do các dự án chủ yếu nằm tại khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, thiếu tài liệu phục vụ công tác lập quy hoạch, điều kiện khảo sát thực địa không thuận lợi,… Bên cạnh đó, công tác thẩm tra, thẩm định thiết kế kỹ thuật đều do chủ đầu tư tự tổ chức thực hiện; cơ quan quản lý nhà nước chỉ có ý kiến ở giai đoạn thiết kế cơ sở nên việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng công trình chưa thực sự chặt chẽ. Việc kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện dự án của cơ quan nhà nước ở địa phương cũng chưa được hiệu quả do thiếu nhân lực và chuyên môn.
Từ năm 2013 đến nay, thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường quản lý thủy điện, những tồn tại này đã được khắc phục. Bộ Công Thương phối hợp rà soát, thống nhất loại khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện bậc thang (tổng công suất 655 MW) và 463 dự án thủy điện nhỏ (tổng công suất trên 1.404 MW), đồng thời không xem xét quy hoạch 213 vị trí có tiềm năng thủy điện (349,61 MW) do tác động tiêu cực lớn đối với môi trường – xã hội, hiệu quả thấp, ảnh hưởng quy hoạch/dự án ưu tiên khác.
Các văn bản mới về quản lý chất lượng công trình xây dựng được ban hành, khắc phục những bất cập, bảo đảm cho cả công tác quản lý và việc tuân thủ của các chủ đầu tư, cũng như công tác kiểm tra, giám sát, xử lý của cơ quan có thẩm quyền. Qua kiểm tra thực tế, các thủy điện, nhất là các thủy điện lớn đã làm tốt quy trình vận hành hồ chứa thủy điện trên cơ sở phối hợp tốt với địa phương – ông Trần Hữu Lượng cho biết.
Tại Hội nghị này, đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam, một số công ty thủy điện, lãnh đạo địa phương cũng trình bày tham luận về các vấn đề liên quan như vai trò, lợi ích của thủy điện; công tác vận hành, đảm bảo an toàn đập; những khó khăn vướng mắc trong vận hành hồ chứa, hành lang thoát lũ; xây dựng bản đồ ngập lụt và phương án phòng chống lũ lụt hạ du; công tác quan trắc khí tượng thủy văn; công tác phối hợp; báo cáo, tuyên truyền trong vận hành hồ chứa góp phần giảm lũ cho hạ du,…
Đây là dịp đánh giá, rút kinh nghiệm công tác quản lý thủy điện thời gian qua, từ đó triển khai các giải pháp, đề xuất sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, vận hành an toàn, hiệu quả công trình thủy điện trong thời gian tới.