Giá điện đang khiến dư luận xôn xao chỉ là một vấn đề. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn vào chiều sâu về bản chất của ngành Điện lực Việt Nam đang hoạt động và phục vụ đất nước như thế nào? Bằng cơ chế nào để giúp EVN có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao? Đấy là trăn trở, nhận định và cũng là câu hỏi lớn của Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi đặt ra khi bàn về chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam trong giai đoạn trước mắt, cũng như lâu dài.
Bức tranh tổng thể của EVN
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một Tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước giữ vai trò trụ cột trong ngành năng lượng Việt Nam. Nhiều thập kỷ qua, EVN đã đầu tư phát triển, vận hành hệ thống điện để đảm bảo cung cấp đủ điện cho nền kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Ngành Điện lực Việt Nam đã có những bước phát triển rất lớn. Những năm 1991-1992, cả nước chỉ có khoảng 6.000 MW, sau 20 năm đổi mới đồng nghĩa với một quá trình đầu tư xây dựng mạnh mẽ, đến nay cả nước đã có tới 28.000 MW và hằng trăm nghìn km đường dây và trạm biến áp từ 500kV trở xuống. EVN hiện có khoảng trên 100.000 cán bộ công nhân viên đảm bảo hoạt động thông suốt từ khâu vận hành các nhà máy phát điện đến truyền tải, phân phối điện, bố trí đều khắp từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, xa và hải đảo.
Ngành điện là một ngành kinh tế đặc biệt, toàn bộ hệ thống đều là công nghệ hiện đại với kỹ thuật cao. Sản phẩm điện có tính đặc thù, vừa sản xuất vừa tiêu thụ đồng thời cùng một lúc. Hoàn toàn khác với các doanh nghiệp kinh doanh khác, EVN không chỉ làm kinh doanh đơn thuần mà còn làm nhiệm vụ chính trị – đó là đảm bảo đủ điện cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân và còn đảm bảo an sinh – xã hội. Sự lớn mạnh của EVN trong nhiều thập kỷ qua, ngoài sự nỗ lực nội tại còn có sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Nhà nước, các bộ ngành và nhân dân.
Trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng, các thế hệ trước đây và EVN hiện nay đã có tầm nhìn xa thấy rộng, đầu tư vào những dự án có quy mô lớn, mang tính đột phá và có ý nghĩa lịch sử như các nhà máy thủy điện: Hòa Bình (1.920MW), Trị An (440 MW), Yaly (720MW)… Đặc biệt, công trình nổi tiếng do Thủ tướng Võ Văn Kiệt khởi xướng và trực tiếp chỉ đạo, đường dây siêu cao áp 500kV Bắc – Nam từ Hòa Bình vào Phú Lâm. Đây là công trình Việt Nam xây dựng lần đầu tiên có chiều dài kỷ lục tới 1.567 km, hoàn toàn đi trên đồi núi cao dọc dãy Trường Sơn, theo suốt chiều dài đất nước. Bình thường, công trình này phải xây dựng mất từ 7 đến 8 năm, nhưng ở đây chỉ xây dựng trong vòng 2 năm. Những năm tháng của thời kỳ 1990-1991, miền Nam thiếu điện nghiêm trọng, sự hoàn thành đường dây 500kV đã đưa điện từ miền Bắc vào miền Nam đã thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nước được chuyển biến mạnh mẽ, tạo đà cho việc phát triển kinh tế – xã hội đưa đến thắng lợi như ngày nay.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có những chủ trương rất sáng suốt, cho EVN những cơ chế đặc biệt như ban hành Quyết định 747 để EVN làm chủ đầu tư xây dựng khoảng 40 nhà máy thủy điện theo hình thức chỉ định thầu. EVN chỉ đạo từ khâu thiết kế đến khâu chỉ đạo thực hiện, đồng thời sử dụng sức mạnh tổng hợp để huy động các nhà thầu xây dựng trong nước, sử dụng một lượng thiết bị nội địa hóa về cơ khí và chỉ nhập khẩu những thiết bị chính ở nước ngoài. Hàng loạt các dự án đó đều triển khai xây dựng rất nhanh (từ 3-4 năm), đảm bảo chất lượng, hiệu quả kinh tế, đã tạo ra được khoảng 7.000 MW điện bổ sung cho hệ thống điện quốc gia.
Đặc biệt, dự án Thủy điện Sơn La có công suất 2.400 MW, cung cấp điện lượng tới 10 tỷ kWh/năm, đã hoàn thành trước thời hạn 3 năm làm lợi cho Nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồng. Đồng thời EVN còn đầu tư rất nhiều dự án nhiệt điện than, nhiệt điện khí như nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2, Uông Bí (mở rộng), Hải Phòng, Quảng Ninh… Khu vực miền Nam EVN tập trung xây dựng Trung tâm Điện lực Phú Mỹ – Bà Rịa có công suất tới 4.000 MW và đang khẩn trương xây dựng các nhà máy tua bin khí thuộc Trung tâm Điện lực Ô Môn có công suất 3.300 MW.
Song song với việc phát triển nguồn, EVN còn tập trung đầu tư xây dựng phát triển hệ thống lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối để đồng bộ với các nhà máy phát điện. Ngoài đường dây siêu cao áp 500kV mạch 1, EVN đã xây dựng hoàn thành đường dây 500kV mạch 2. Với quy mô của 2 đường dây này, hằng ngày cung cấp cho miền Nam một lượng điện lên tới 3.000 MW. Đồng bộ với các đường dây 500kV Bắc Nam, EVN còn xây dựng rất nhiều trạm biến áp 500kV, đường dây và trạm 220kV… để đảm bảo ổn định vận hành hệ thống điện.
Điều gì khiến những người thợ đường dây, “lính truyền tải” bỏ phố lên rừng?
Giải bài toán lỗ của EVN
Trong nhiều năm qua, EVN đã hoạt động sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả, luôn luôn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận cao, đảm bảo đủ vốn để trang trải các hoạt động của ngành và có tiền để làm đối ứng cho việc vay vốn đầu tư những dự án xây dựng nguồn điện, cũng như đầu tư xây dựng rất nhiều dự án đường dây và trạm biến áp từ 500kV trở xuống.
Nhưng trong những năm gần đây, đặc biệt là những năm 2010 – 2011 do nắng nóng kéo dài, chủ yếu là khu vực miền Nam làm cho khu vực này bị thiếu điện nghiêm trọng. Một số các nhà máy điện ở miền Nam phải chạy bằng dầu, giá 1kWh điện chạy dầu lên tới 4.000-5.000 đồng/1kWh. Do đó, EVN đã bị lỗ tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Mặt khác, EVN còn lỗ do làm nhiệm vụ chính trị, đó là phải vay hàng tỷ USD để đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống điện nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên toàn quốc. Ngoài ra, trước đây EVN vay rất nhiều vốn nước ngoài (hàng chục tỷ USD) với tỷ giá thấp, nhưng những năm gần đây tỷ giá đã tăng cao, do đó lỗ về tỷ giá đã lên trên 20 nghìn tỷ đồng. Như vậy, việc lỗ trong sản xuất kinh doanh điện và lỗ về tỷ giá của EVN là sự thật.
Năm 2012, EVN có lãi được khoảng 6.000 tỷ đồng nên đã trả nợ được một phần. Còn năm 2013, chưa quyết toán nhưng có khả năng EVN vẫn bị lỗ. Nguyên nhân do mùa nóng khô hạn vừa qua ở các tỉnh miền Nam bị kéo dài, EVN phải huy động tối đa nguồn điện chạy dầu. Cộng thêm giá khí cũng đã tăng, vì vậy EVN bị lỗ về giá khí lên tới 1.000 tỷ đồng. Cùng với đó, giá than tăng lên, EVN bị lỗ tiếp khoảng 5.000 tỷ đồng. Cộng cả hai khoản này, EVN đã lỗ về giá nhiên liệu đầu vào lên tới 6.000 tỷ đồng. Mặc dù từ 1/8/2013, Chính phủ cho tăng giá điện lên 5%, theo tính toán của EVN phần tiền thu được của việc tăng giá điện được khoảng 3.500 tỷ đồng. Như vậy, trong năm 2013 riêng việc tăng giá nhiên liệu đầu vào trừ đi việc thu tăng 5% giá điện thì EVN đã lỗ tới 2.500 tỷ đồng.
Những con số tính toán trên đặt ra cho EVN những thách thức lớn, đó là phải tìm mọi giải pháp để giải quyết dần số lỗ đã nêu. Để giải bài toán này, trước hết EVN phải tìm mọi biện pháp để giảm tổn thất điện năng từ 9% xuống 8% hoặc 7%. Đặc biệt là việc tiêu hao điện quá lãng phí thể hiện ở cường độ tiêu thụ điện rất cao, làm cho hệ số đàn hồi đang ở mức 2 đến 2,5. EVN cần có sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương để làm cho các doanh nghiệp và người dân phải có ý thức tiết kiệm điện một cách tốt nhất, giảm hệ số đàn hồi từ 2 xuống thấp hơn trong những năm tới. Với tổng sản lượng điện thương phẩm khoảng 130 tỷ kWh, chỉ cần tiết kiệm được 5 – 7% lượng điện thì hằng năm sẽ giảm được hàng nghìn tỷ đồng cho ngành điện. EVN cần tìm mọi biện pháp để giảm giá thành, đảm bảo việc hạn chế lỗ và tăng lãi hàng năm. Mặt khác, số lỗ về tỷ giá thuộc về quản lý vĩ mô, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về số tiền lỗ này.
Một nhiệm vụ quan trọng đó là, EVN cần phải làm tốt hơn nữa công tác chăm sóc khách hàng, việc này phải làm thường xuyên và có biện pháp làm cho khách hàng đồng tình ủng hộ.
Chính phủ cần xem ngành điện là một ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước để đưa ra các giải pháp cấp bách huy động vốn, giúp ngành điện có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao.
Những bất cập về giá điện
Vấn đề giá điện là một việc rất nan giải, do vậy mỗi lần tăng giá thì nhiều người phản ứng rất mạnh. Bởi lẽ, điện là nhu cầu sử dụng của mọi đối tượng, thành phần trong xã hội. Nếu không có điện, hoặc thiếu điện thì hoạt động sản xuất cũng như sinh hoạt của nhân dân sẽ rất nguy hiểm, hậu quả khó lường.
Hiện tại, giá điện của Việt Nam đang ở mức 7cent/kWh thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như: Campuchia giá điện tới 30 cent/kWh, Singapo 10cent/kWh, các nước khác trên thế giới bình quân có giá từ 10cent/kWh trở lên.
Một lý do bất khả kháng nữa là hiện nay do thay đổi khí hậu toàn cầu, trong đó Việt Nam là vùng ảnh hưởng lớn dẫn đến khí hậu nước ta thay đổi bất thường, hàng năm số giờ nắng nóng, khô hạn liên tục kéo dài, đặc biệt là ở khu vực miền Trung và miền Nam. Do vậy, EVN không thể tránh khỏi phải sử dụng dầu để vận hành nhiều nhà máy điện ở khu vực này như tình trạng đã nêu trên. Việc hàng năm cứ tăng 5% giá điện có nghĩa là tăng thêm 1kWh khoảng 70-71 đồng thì EVN cũng chỉ thu về được 3.000-3.500 tỷ đồng, phần chênh lệch này cũng chỉ đủ trả nợ một phần cho số lỗ trước đây, và lỗ hàng năm có thể xảy ra.
Bất cập về giá còn thể hiện ở hàng chục dự án điện dưới hình thức BOT, IPP nằm trong QHĐ VII không hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài cũng bởi chính sách giá điện và trình tự thủ tục đầu tư còn nhiều bất cập, phức tạp. Trên thực tế đã có nhiều nhà đầu tư nước ngoài bỏ cuộc, bởi giá điện của chúng ta còn thấp, không có khả năng thu hồi vốn…
Một nguyên nhân khác là đời sống nhân dân còn quá thấp. Đảng, Chính phủ cần đẩy mạnh việc tái cơ cấu nền kinh tế, tìm mọi biện pháp để nâng đời sống của nhân dân lên. Trước mắt, cần tập trung đột phá việc cải tổ, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước như thay đổi công nghệ, trang thiết bị, phương thức quản lý mới… để tạo ra được sản lượng cao, năng suất cao, chất lượng tốt, tiêu hao năng lượng ít và tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới.
Đầu tư và sử dụng vốn
Ngày 21/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số: 1208/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 (QHĐ VII). Theo QHĐ VII, phải xây dựng 52 nhà máy nhiệt điện chạy than, 2 nhà máy điện nguyên tử và một số dự án thủy điện còn lại. Số vốn đầu tư cho các dự án trên khoảng 50 tỷ USD. Trong đó, giao cho 3 tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước như: EVN, PVN, TKV, còn lại hàng chục dự án BOT, IPP là do nước ngoài đầu tư.
Từ ngày có quyết định đến nay, việc triển khai các dự án đang rất chậm. Việc chậm trễ đó có nhiều nguyên nhân, đầu tiên là khâu chỉ đạo, điều hành. Thứ hai là tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng của từng dự án. Thứ ba là trình tự lập các hồ sơ theo thủ tục xây dựng cơ bản cũng như việc tổ chức đấu thầu rườm rà và kéo dài thời gian. Thứ tư là công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư gặp nhiều khó khăn và nhiều nguyên nhân khác…
Theo mục tiêu của QHĐ VII tới năm 2020 sẽ xây dựng được 75.000 MW, điện lượng phát ra từ 330 đến 360 tỷ kWh/năm. Lúc đó tỷ trọng của nhiệt điện sẽ cao hơn thủy điện để đảm bảo cung cấp đủ điện cho mùa khô, ngoài ra còn có điện dự phòng. Theo QHĐ VII, các dự án xây dựng nhà máy phát điện được bố trí dọc theo duyên hải từ Bắc vào Nam. Nếu hoàn thành được sẽ đảm bảo việc cung cấp điện một cách hợp lý cho từng miền, từng khu vực và từ các nhà máy phát điện lớn sẽ có các đường dây 500kV đấu nối với đường dây trục chính Bắc-Nam, hệ thống lưới điện 500kV Bắc-Nam sẽ làm nhiệm vụ điều hòa toàn bộ hệ thống và tạo ra mạch vòng của lưới 500kV, từ đó sẽ giảm được tổn thất điện năng.
Từ nay đến 2020 chỉ còn 7 năm để thực hiện yêu cầu của QHĐ VII, sẽ rất khó khăn nếu tình hình triển khai chậm, kéo dài như hiện nay, đặc biệt gay cấn nhất đó là việc thiếu vốn của hàng loạt các dự án.
Thực tế hiện nay, trong ba tập đoàn: EVN, PVN, TKV thì số dự án được phân bổ EVN chiếm số lượng nhiều hơn. Hiện tại, trong QHĐ VII, EVN đã hoàn thành được một số dự án bổ sung cho hệ thống điện quốc gia trên 4.000 MW. Đa số dự án còn lại, gồm các dự án nhiệt điện chạy than và một số dự án thủy điện như: Thái Bình 1 (600MW), Duyên Hải 1 (1.200MW), Duyên Hải 3 (1.200 MW), Duyên Hải 3 mở rộng, Vĩnh Tân 2 (1.200MW), Vĩnh Tân 4 (1.200MW), đang đẩy mạnh xây dựng thủy điện Lai Châu, thủy điện Huội Quảng, Bản Chát, Trung Sơn, và một số dự án thủy điện tích năng. Bên cạnh đó, EVN đang đàm phán với nhà thầu Nga và Nhật Bản để sớm duyệt được FS của hai nhà máy điện nguyên tử Ninh Thuận 1 và 2. Các dự án trên sẽ đóng góp hàng chục nghìn MW công suất cho hệ thống điện quốc gia.
Song song với việc xây dựng nguồn điện, EVN còn tập trung xây dựng rất nhiều dự án đường dây và trạm. Trong đó, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (NPT) thành lập cách đây 5 năm đã và đang hoạt động rất tốt, xây dựng rất nhiều đường dây và trạm 500kV, 220kV góp phần cải thiện việc cung cấp điện mùa khô năm nay ở khu vực miền Nam, cũng như các dự án đường dây và trạm đồng bộ với các nhà máy phát điện. Các tổng công ty điện lực miền: Bắc, Trung, Nam và 2 thành phố: Hà Nội, TP. HCM đã, đang tích cực đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống đường dây và trạm từ 110 kV, 22kV, hệ thống lưới điện hạ thế để đưa điện về các hộ tiêu dùng.
Những năm qua, EVN đã tái cơ cấu tổ chức sắp xếp thành lập 3 tổng công ty phát điện (GENCO) để vận hành, quản lý, đầu tư xây dựng các nhà máy phát điện (trừ một số nhà máy thủy điện đa mục tiêu như: Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Yaly…). Điều này sẽ giảm bớt gánh nặng tập trung ở EVN và tạo điều kiện cho việc đa dạng hóa thị trường phát điện cạnh tranh.
Như vậy, để thực hiện triển khai các dự án xây dựng nhà máy phát điện, xây dựng đường dây và trạm đồng bộ nêu trên, EVN cần phải có một lượng vốn khoảng trên 400.000 tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD). Hiện nay, ngay cả vốn đối ứng để vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước EVN đang gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề này chỉ có một giải pháp duy nhất, đó là Chính phủ cần xem ngành điện là một ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước để đưa ra các giải pháp cấp bách huy động vốn, giúp ngành điện có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao.
Trọng trách của EVN
Trong “tam giác bền vững” của 3 trụ cột ngành năng lượng Việt Nam gồm EVN, PVN, TKV phải đảm bảo an ninh năng lượng phát triển nền kinh tế đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, tiến tới công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Trong 3 trụ cột đó, thì EVN gánh trọng trách nặng hơn. Để thực hiện được nhiệm vụ to lớn của Đảng và Chính phủ giao, bằng đội ngũ cán bộ công nhân có trình độ, có kiến thức, có tầm nhìn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, đội ngũ công nhân có tay nghề cao, EVN cần phải tập trung tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong việc đầu tư xây dựng các nhà máy phát điện, đồng bộ với việc xây dựng các đường dây và trạm biến áp.
Nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển, mối quan hệ chặt chẽ giữa việc tăng trưởng điện năng phải phù hợp với tăng trưởng GDP, trong đó, điện luôn luôn đi trước một bước. Để tiến tới năm 2020, đất nước chúng ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì ngành năng lượng nói chung và EVN nói riêng bằng mọi biện pháp tìm ra những khâu đột phá mới để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu của QHĐ VII, đạt được 75.000 MW điện, tương ứng với 360 tỷ kWh/năm. Lúc đó, sản lượng điện đầu người của Việt Nam sẽ đạt được khoảng 3.000 kWh. Đó là một trong những tiêu chí hàng đầu của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
P1 theo Nguồn: Năng lượng Mới