Trong 56 năm phát triển và trưởng thành của mình, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã trải qua những bước ngoặt lịch sử đánh dấu bước chuyển mình quan trọng và vững chắc. Ban biên tập xin được giới thiệu cùng độc giả những dấu mốc quan trọng này.
Những bước ngoặt lịch sử
Trong 56 năm phát triển và trưởng thành của mình, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã trải qua những bước ngoặt lịch sử đánh dấu bước chuyển mình quan trọng và vững chắc. Ban biên tập xin được giới thiệu cùng độc giả những dấu mốc quan trọng này.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm ngành Điện
Ngày 21/12/1954, hơn hai tháng sau ngày tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ đã đến thăm Nhà máy điện Yên Phụ và Nhà máy đèn Bờ Hồ. Tại buổi gặp mặt thân tình này, Bác nói: “Nhà máy này bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải giữ gìn nhà máy, làm cho nó phát triển hơn nữa…” Từ đó, ngày 21/12 hằng năm được coi là ngày Truyền thống của ngành Điện lực Việt Nam.
2. Thành lập cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên chuyên trách lĩnh vực điện
Ngày 21/7/1955, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra Quyết định số 169-BCT/ND/KB (Thứ trưởng Đặng Viết Châu ký) thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương và bổ nhiệm ông Hồ Quý Diện làm Cục trưởng. Sự kiện này đặt dấu mốc pháp lý về hoạt động chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực. Ngày 21/2/1961, Bộ Thủy lợi và Điện lực ra Quyết định số 86-TLĐL/QĐ về việc chuyển Cục Điện lực thành Tổng cục Điện lực. Ngày 28/12/1962, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định tách Tổng cục Điện lực Khỏi Bộ Thủy lợi và Điện lực về trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng. Sau đó lại đổi tên là Cục Điện lực. Ngày 6/10/1969, Bộ Điện và Than ra Quyết định số 106/QĐ/TC thành lập Công ty Điện lực (nay là Công ty Điện lực 1) trực thuộc Bộ Điện và Than với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh điện năng và hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế. Năm 1981, Bộ Điện lực ra đời.
3. Nâng tổng công suất nguồn điện toàn quốc lên gấp 2 lần năm 1954
Khi tiếp quản Thủ đô vào tháng 10/1954, cơ sở vật chất chỉ vẻn vẹn 31,5 MW công suất, sản lượng điện khoảng 53 triệu kWh/năm. Đến giai đoạn từ năm 1956 – 1958, qua một thời gian củng cố các cơ sở quản lý sau tiếp quản và nâng cấp, sửa chữa lại các nhà máy, đường dây do Pháp để lại, cùng lúc 3 nhà máy nhiệt điện mới đã được khởi công xây dựng, gồm Nhà máy Điện Vinh (8 MW), NMĐ Thanh Hóa (6 MW) và NMĐ Lào Cai (8 MW), đưa tổng công suất nguồn tăng gấp 2 lần so với năm 1954. Đây là bước khởi đầu quan trọng, làm tiền đề cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống nguồn và lưới điện Việt Nam những năm tiếp theo.
4. Xây dựng đường dây trung áp35 kV đầu tiên
Tháng 1/1958, tuyến đường dây 35 kV đầu tiên (Hà Nội – Phố Nối) được khởi công xây dựng và trong quý III cùng năm đã khánh thành, đóng điện thành công. Trước đó, sau khi tiếp quản Thủ đô, các tuyến đường dây 30,5 kV cũ chỉ được cải tạo, nâng cấp lên 35 kV; các đường dây tải điện như: Hà Nội-Hà Đông, Hà Nội-Sơn Tây, Hà Nội-Phố Nối, Thái Bình-Nam Định… được phục hồi để sử dụng.
5. Xây Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí công suất lớn nhất đầu tiên ở miền Bắc
Ngày 19/5/1961, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí với công suất 48 MW được khởi công xây dựng. Năm 1963 khánh thành và đi vào hoạt động. Đây là nhà máy nhiệt điện có công suất lớn nhất miền Bắc trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng, cung cấp thiết bị và đào tạo cán bộ, công nhân; là một trong những nguồn cấp điện chủ lực trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Sau đó, Nhà máy được nâng công suất lên 153 MW. Tháng 5/2002, dự án Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí mở rộng công suất 300 MW (1 tổ máy) được khởi công do EVN làm chủ đầu tư, với mức đầu tư trên 300 triệu USD. Đến nay, nhà máy này đã phát điện thương mại. Hiện, EVN đang tiếp tục đầu tư dự án Nhiệt điện Uông Bí mở rộng 2 với công suất 300 MW.
6. Xây tuyến đường 110 đầu tiên của miền Bắc
Quý III/1962, tuyến đường dây 110 kV đầu tiên của miền Bắc (Đông Anh-Việt Trì, Uông Bí-Hải Phòng) được khởi công xây dựng và đến quý IV/1963 hoàn thành đóng điện. Thời gian tiếp theo, nhiều nhà máy điện, tuyến đường dây và TBA 110 kV, 35 kV đã ra đời. 9 trong số 12 nhà máy điện đã được nối liền bằng đường dây 110 kV, tạo thành một hệ thống điện hoàn chỉnh của miền Bắc. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của hệ thống điện trước khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.
7. Xây Thủy điện Thác Bà công suất lớn đầu tiên ở miền Bắc
Ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà (Yên Bái) công suất 108 MW; khánh thành (đợt 1) và đưa vào vận hành ngày 5/10/1971. Đây là công trình thủy điện có công suất lớn đầu tiên của Việt Nam được xây dựng với sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau chiến tranh phá hoại miền Bắc, Thủy điện Thác Bà được khôi phục hoàn chỉnh và đầu năm 1973 cả 3 tổ máy đã được đưa vào tiếp tục vận hành.
8.Thành lập Công ty Điện lực miền Trung
Ngày 7/10/1975, Công ty Điện lực miền Trung (nay là Công ty Điện lực 3) được thành lập. Sau khi được giải phóng, các cơ sở điện lực khu vực miền Trung hầu hết đều nhỏ bé, manh mún, không có lưới truyền tải cao thế, toàn miền chỉ có 150 máy phát diezel phân tán ở các đô thị, tổng công suất đặt là 74 MW. Công ty Điện lực miền Trung ra đời là điều kiện đảm bảo cho sự thống nhất trong công tác quản lý điều hành; đồng thời củng cố, phát triển sản xuất kinh doanh điện trong toàn khu vực miền Trung: Công ty Điện lực miền Trung sau đó đổi tên thành Công ty Điện lực 3. Hiện Công ty Điện lực 3 (PC3) là doanh nghiệp thành viên thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hoạt động đa ngành nghề trong đó ngành nghề chính là sản xuất, kinh doanh điện năng với địa bàn hoạt động tại 13 tỉnh, thành phố miền Trung, Tây Nguyên.
9. Thành lập Công ty Điện lực miền Nam
Ngày 7/8/1976, Bộ trưởng Bộ Điện và Than ra Quyết định số 1592/QĐ-TCCB.3 về việc đổi tên Tổng cục Điện lực (thành lập ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng) thành Công ty Điện lực miền Nam. Ngày 9/5/1981, Công ty Điện lực miền Nam đổi tên thành Công ty Điện lực 2 theo Quyết định số 15/TTCBB.3 của Bộ trưởng Bộ Điện lực. Ngày 7/4/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 147-TTg chuyển Công ty Điện lực 2 trực thuộc Bộ Năng lượng. Từ ngày 1/4/1995, Công ty Điện lực 2 được thành lập lại, trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam).
10.Tuyến đường dây 220 kV đầu tiên được xây dựng
Tháng 3/1979, tuyến đường dây 220 kV Hà Đông – Hòa Bình được khởi công xây dựng và đến tháng 5/1981 đưa vào vận hành. Đây là đường dây truyền tải 220 kV đầu tiên ở miền Bắc, nâng cao năng lực truyền tải, cung cấp điện và tạo cơ sở kỹ thuật cho việc xây dựng đường dây siêu cao áp 500 kV Bắc-Nam sau này.
11. Công trình thuỷ điện Hòa Bình lớn nhất đầu tiên ở Việt Nam
Ngày 6/11/1979, hàng vạn CBCNV Việt Nam và 186 chuyên gia Liên Xô đã cùng tham gia Lễ khởi công công trình Thủy điện Hòa Bình. Thời điểm đó, đây là công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam do Liên Xô giúp xây dựng với 8 tổ máy có tổng công suất 1.920 MW. Sau hơn 3 năm, đúng 9h00 ngày 12/1/1983, Lễ ngăn sông đợt 1 được tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Ngày 9/1/1986, ngăn sông Đà đợt 2. Ngày 30/12/1988, tổ máy 1 (240 MW) đã phát điện, hòa lưới điện quốc gia. Sau đó, mỗi năm hoàn thành và đưa từ 1-2 tổ máy vào vận hành. Ngày 20/12/1994, công trình Thủy điện Hòa Bình đã được khánh thành. Việc hoàn thành Thủy điện Hòa Bình đánh dấu một bước phát triển mới của ngành năng lượng và sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
12. Thực hiện Tổng sơ đồ phát triển điện năng giai đoạn 1 (1981-1985)
Lần đầu tiên, Việt Nam xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển điện lực. Trong giai đoạn này, ngành Điện đã khẩn trương xây dựng, hoàn thành những công trình lớn có tầm cỡ chiến lược quốc gia như: Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện Hòa Bình, củng cố các nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình, Thái Nguyên, khai thác hết công suất Thủy điện Thác Bà… Về lưới điện, đã đưa các đường dây 220 kV Thanh Hóa –Vinh, Phả Lại-Hà Đông, trạm 110 kV, 220 kV Hà Đông mang tải sớm trước thời hạn, thi công xây dựng trạm 110 kV Yên Phụ. Nhiều trạm trung gian và đường dây phân phối được lắp đặt, vận hành. Nhìn chung, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế song về tổng thể, Tổng sơ đồ 1 đã đạt được kết quả nổi bật là: Đưa được công trình nhiệt điện Phả Lại và các công trình lưới điện vào đúng tiến độ, đáp ứng được nhu cầu về điện giai đoạn 1981-1985. Lần lượt các giai đoạn sau đó, ngành Điện liên tục thực hiện các Tổng sơ đồ (Quy hoạch) điện II, III, IV, V. Hiện, Quy hoạch điện VI (giai đoạn 2006-2015, định hướng tới 2025) đang được triển khai thực hiện. Trong đó, EVN đầu tư góp vốn 42 dự án nguồn với tổng công suất 22.748 MW/59.463 MW (chiếm 38,3% tổng công suất đặt mới của cả nước). Thực hiện đầu tư lưới 500 kV gồm 13.200 MVA trạm biến áp và 3.178 km đường dây; lưới 220 kV gồm 39.063 MVA trạm biến áp và 9.592 km đường dây; lưới 110 kV gồm 41.315 MVA trạm biến áp và 12.659 km đường dây. Hiện nay, EVN và các bộ ngành liên quan đang chuẩn bị tiếp tục xây dựng Quy hoạch điện VII.
13. Xây dựng đường dây siêu cao áp 500 kV
Ngày 5/4/1992, đường dây siêu cao áp 500 kV Bắc-Nam (mạch 1) dài 1.487 km được khởi công xây dựng và ngày 27/5/1994 đã khánh thành, đóng điện vận hành. Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành mang tính đột phá của Điện lực Việt Nam. Hệ thống điện quốc gia Việt Nam từ đây được hình thành trên cơ sở liên kết lưới điện các khu vực Bắc – Trung – Nam thông qua trục “xương sống” là đường dây 500 kV. Ngày 23/10/2005, đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 2 tiếp tục được hoàn thành và đưa vào vận hành, đảm bảo hệ thống truyền tải siêu cao áp 500 kV hai mạch song song truyền tải điện 2 chiều Nam – Bắc, liên kết vững chắc, vận hành an toàn, tin cậy. Nếu đường dây 500 kV mạch 1 thể hiện sự quyết tâm, nỗ lực và trình độ trí tuệ của những người làm điện thì thành công của công trình ĐZ 500 kV mạch 2 tiếp tục khẳng định “thương hiệu Việt” trong chế tạo thiết bị, thiết kế và thi công đường dây siêu cao áp.
14. Thành lậpTrung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia
Ngày 11/4/1994, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Thái Phụng Nê ký Quyết định số 180/NL/TCCB-LĐ về việc thành lập Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia (Ao), với nhiệm vụ: Chỉ huy, điều hành hệ thống sản xuất, truyền tải, phân phối điện năng trong hệ thống điện quốc gia theo phân cấp quản lý điều độ, nhằm đạt kết quả tối ưu về kỹ thuật và kinh tế, đảm bảo hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn, liên tục, tin cậy.
Trạm 220 kV Ba La (Hà Đông)
15. Thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt Nam
Tổng công ty Điện lực Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 562/QĐ-TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị thuộc Bộ Năng lượng; tổ chức và hoạt động theo Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định số 14/CP ngày 27/1/1995 của Chính phủ. Ngày 1/1/1995, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) chính thức ra mắt, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện năng trên toàn quốc. Từ 1/4/1995, EVN bắt đầu điều hành toàn bộ công việc của ngành Điện, bao gồm: Phát điện, truyền tải, phân phối, đầu tư xây dựng trên cơ sở các Tổng sơ đồ phát triển điện đã được phê duyệt. Sự ra đời của EVN đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Là một doanh nghiệp lớn, ngành Điện tự cân đối tài chính, hạch toán kinh tế, tự trang trải nhằm bảo toàn, phát triển vốn, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế.
16. Sản xuất thành công MBA 220 kV công suất 250 MVA
Năm 1995, ngành Cơ khí ĐLVN được đánh dấu một bước phát triển quan trọng khi hoàn thành việc nghiên cứu và thiết kế thành công máy biến áp 110 kV – 25.000 kVA. Năm 2003, chế tạo thành công MBA 220 kV – 125 MVA. Đến năm 2005, ngành Cơ khí điện lực đã tự sửa chữa MBA 500 kV và sản xuất thành công MBA 220 kV công suất 250 MVA. Đây là bước tiến vượt bậc của ngành Cơ khí điện lực Việt Nam trong việc khẳng định nội lực, hạn chế sử dụng hàng nhập ngoại và thuê chuyên gia sửa chữa, tư vấn của nước ngoài.
17. Áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù cho các công trình điện cấp bách
Nhằm đảm bảo đẩy nhanh tiến độ các công trình điện đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao, EVN đã được Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù đối với các công trình điện. Cụ thể, các dự án thủy điện đang xây dựng và sẽ khởi công xây dựng trong giai đoạn 2006 – 2010 được thực hiện theo các cơ chế, chính sách quy định tại các văn bản của Chính phủ: số 797/CP-CN ngày 17/6/2003 và số 400/CP-CN ngày 26/3/2004. Tiếp đến, 14 dự án xây dựng điện cấp bách giai đoạn 2006 – 2010 và giai đoạn sau năm 2010 được tiếp tục áp dụng cơ chế này theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 9/11/2005 của Chính phủ. Sau thời gian ngắn áp dụng, các cơ chế này đã thể hiện tính ưu việt, đạt được hiệu quả cao trong các dự án đã và đang đầu tư xây dựng.
18. Luật Điện lực chính thức được ban hành
Ngày 3/12/2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Điện lực và chính thức ban hành có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2005. Sự ra đời của Luật Điện lực đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điện lực, nâng cao tính minh bạch, công bằng cho các bên tham gia hoạt động lĩnh vực điện lực, góp phần nâng cao năng lực cung ứng điện năng cho nền kinh tế đất nước.
19. Khánh thành Trung tâm Điện lực Phú Mỹ
Ngày 10/4/2005, Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện có tổng công suất 3.859 MW, lớn gấp đôi Thủy điện Hòa Bình. Trong đó, EVN đầu tư xây dựng Nhà máy Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng và Phú Mỹ 4; các nhà máy Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2 do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức BOT. Đây là công trình quan trọng ghi nhận sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp Điện lưc Việt Nam. Đồng thời, qua việc tham gia xây dựng công trình, lực lượng tư vấn xây dựng điện của ngành đã bước đầu tiếp cận được công nghệ hiện đại và chủ động trong công tác tư vấn thiết kế nhà máy điện chạy khí.
20. Thành lập Cục Điều tiết lực
Ngày 19/10/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết Điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương). Cục Điều tiết Điện lực có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng điều tiết hoạt động điện lực và thị trường điện lực, nhằm góp phần cung cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và bảo đảm tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.
21. Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn Lalớn nhất Việt Nam và Đông Á
Ngày 2/12/2005, Thủy điện Sơn La – công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á được khởi công xây dựng. Với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, điện lượng hằng năm dự kiến 10,2 tỷ kWh. Thủy điện Sơn La có tổng mức đầu tư 36.933 tỷ đồng, là công trình đa mục tiêu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Dự kiến, tổ máy 1 sẽ phát điện vào năm 2010 và hoàn thành toàn bộ công trình vào năm 2012.
22. Hình thành thị trường điện cạnh tranh tại Việt Nam
Ngày 26/01/2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 26/2006/TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu từng bước phát triển thị trường điện lực cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thị trường điện lực tại Việt Nam sẽ được hình thành và phát triển qua 3 cấp độ: Cấp độ 1 (2005 – 2014): Thị trường phát điện cạnh tranh; Cấp độ 2 (2015 – 2022): Thị trường bán buôn điện cạnh tranh; Cấp độ 3 (từ sau 2022): Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh. Việc hình thành và phát triển thị trường điện là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ và sự phối hợp đồng bộ của các đơn vị. Trong đó Tập đoàn Điện lực Việt Nam đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho quá trình phát triển này.
23. EVNTelecom chính thức trở thành nhà cung cấp đầy đủ các dịch vụ viễn thông công cộng
Tháng 5/2006, EVNTelecom đưa dịch vụ điện thoại di động toàn quốc (E-Mobile) vào khai thác và chính thức trở thành nhà cung cấp đầy đủ các dịch vụ viễn thông công cộng trên phạm vi cả nước. Với công nghệ CDMA 2000 1x tần số 450 MHz, đến nay, EVNTelecom đã phát triển mạnh hạ tầng kỹ thuật, mật độ phủ sóng, triển khai tốt các chương trình quảng bá, không ngừng mở rộng thị phần, nâng cao số lượng khách hàng đạt 4,1 triệu. Đặc biệt, vừa qua, EVNTelecom đã liên danh với Hanoi Telecom, trở thành 1 trong 4 nhà cung cấp (cùng với Viettel, VinaPhone, MobiFone) được Bộ Thông tin &Truyền thông trao giấy phép 3G. Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho ngành Viễn thông Điện lực trong việc đẩy mạnh năng lực cung cấp các dịch vụ viễn thông đa phương tiện như dịch vụ Internet không dây, truyền hình, phát thanh… Viễn thông Điện lực thực sự trở thành lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn, góp phần tăng lợi nhuận, hỗ trợ tài chính cho đầu tư phát triển sản xuất của EVN.
24. Thành lập Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với 3 lĩnh vực kinh doanh chính là điện năng, cơ khí và viễn thông. Quyết định 148/2006/QĐ-TTG ngày 22/6/2006 về việc thành lập Công ty mẹ – Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Ngày 17/12/2006, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức ra mắt, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại, đưa ngành Điện nhanh chóng trở thành một Tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành nghề, đa sở hữu, có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại, chuyên môn hóa cao và hội nhập quốc tế có hiệu quả.
25. Thành lậpTrường Đại học lực
Ngày 30/6/2006, Trường Đại học Điện lực (EPU) được thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường Cao đẳng Điện lực. Với 11 chuyên ngành đào tạo, EPU góp phần tăng cường năng lực đào tạo nhân lực có trình độ cao cho ngành Điện.
26. Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam ra đời
Ngày 8/10/2007, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương có Quyết định số 299 QĐ/ĐUK về việc thành lập Đảng bộ Công ty mẹ – Tập đoàn Điện lực Việt Nam, lấy tên là Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Sự ra đời của Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam và việc kiện toàn, sắp xếp các tổ chức đảng trực thuộc sẽ tạo điều kiện phát huy hơn nữa vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp ngành Điện.
27. Thành lập Công ty Mua bán điện
Ngày 31/12/2007, Hội đồng quản trị Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã ban hành quyết định số 1182/QÐ-EVN-HÐQT về việc thành lập Công ty Mua bán điện (EPTC), với nhiệm vụ chính: Lập kế hoạch, đàm phán, thực hiện các hợp đồng mua bán điện; thoả thuận, ký kết thiết kế kỹ thuật, quản lý hệ thống đo đếm điện năng phục vụ mua bán điện; tham gia vận hành thị trường điện nội bộ và cạnh tranh… Công ty Mua bán điện đã và đang tự hoàn thiện, tiến hành nghiên cứu, đổi mới, đào tạo và chuẩn bị các điều kiện tối ưu, sẵn sàng cho các cấp độ tiếp theo của thị trường điện và hoạt động kinh doanh trong thời gian tới.
28. Thành lập Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia
Ngày 4/7/2008, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (NPT) được thành lập với mô hình công ty TNHH MTV, do EVN sở hữu 100% vốn, gồm 4 công ty truyền tải 1, 2, 3, 4 và 3 Ban quản lý dự án các công trình điện miền Bắc, Trung, Nam. NPT có trách nhiệm đầu tư, tổ chức vận hành và quản lý hệ thống truyền tải điện từ 220 kV đến 500 kV của hệ thống điện quốc gia. Mục tiêu chính là cung cấp dịch vụ truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định và tin cậy; bảo đảm cung ứng điện cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội an ninh và quốc phòng cho đất nước; sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao.
29. Thành lập Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực
Ngày 1/9/2008, Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFinance) chính thức khai trương hoạt động, với chức năng chủ yếu là thu xếp vốn và cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính cho ngành Điện và các thành phần kinh tế. Với số vốn điều lệ 2.500 tỷ đồng, EVNFinance định hướng phát triển trở thành một định chế tài chính chuyên nghiệp trong các hoạt động cấp tín dụng tài trợ nguồn vốn, hoạt động tư vấn, đầu tư tài chính…
30. Chính phủ công nhận ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam
Ngày 12/10/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1594/QĐ-TTg chính thức công nhận ngày 21/12 hàng năm là “Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam”. Thủ tướng yêu cầu việc tổ chức ngày Truyền thống phải đảm bảo tiết kiệm, giáo dục truyền thống của ngành Điện lực Việt Nam, động viện phong trào thi đua lao động sản xuất vì sự phát triển của ngành và đất nước. Đến nay, trải qua hơn nửa thế kỷ, các thế hệ CBCNV ngành Điện vẫn luôn thực hiện đúng lời Bác dặn 55 năm trước, khi về thăm 2 nhà máy điện Yên Phụ và Bờ Hồ vào ngày 21/12/1954, gìn giữ và phát huy những thành quả các thế hệ đi trước để lại, không ngừng phát triển sản xuất, thực hiện tốt công tác quản lý, vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
31. Từng bước thực hiện tái cơ cấu ngành
Thực hiện Luật Điện lực và Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg ngày 26/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành, phát triển các cấp độ thị trường điện tại Việt Nam, để từng bước thị trường hóa ngành Điện, đến nay, cùng với các ban ngành liên quan, EVN đang tích cực triển khai thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành Điện. Trong đó, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Thông báo số 232/TB-VPCP ngày 31/7/2009), EVN đã xây dựng và trình Chính phủ Đề án thành lập 5 Tổng công ty Điện lực: Miền Bắc, miền Trung, miền Nam, TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con trên cơ sở tổ chức lại 11 công ty điện lực hiện có. Bên cạnh đó, thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án thành lập các Tổng công ty Phát điện độc lập để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định vào quý I/2010.
32. Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 6 thông qua chủ trương đầu tư xây dựng Nhà máy hạt nhân Ninh Thuận và Thủy điện Lai Châu
Ngày 25/11/2009, với 77,48% đại biểu tán thành, chủ trương đầu tư xây dựng Nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận – nhà máy ĐHN đầu tiên của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 6 thông qua. Theo đó, dự án ĐHN Ninh Thuận bao gồm 2 nhà máy có tổng công suất 4000 MW. Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 xây dựng tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, sẽ khởi công vào năm 2014 và đưa tổ máy đầu tiên vận hành vào năm 2020. Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2 sẽ đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải. Đây là bước tiến quan trọng trong tiến trình phát triển ĐHN vì mục đích hòa bình ở Việt Nam. Trước đó, tháng 9/2007, EVN đã thành lập Ban Chuẩn bị đầu tư Dự án Điện hạt nhân và Năng lượng tái tạo (NRPB) để thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư cho dự án này.
Cũng tại kỳ họp này, với 85,8% số phiếu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về dự án Thủy điện Lai Châu (1.200 MW). Theo đó, Nhà máy Thủy điện Lai Châu có tổng mức đầu tư dự toán là 32.000 tỷ đồng, được khởi công vào cuối năm 2010, phát điện tổ máy số 1 vào năm 2016, hoàn thành vào năm 2017. Đây là công trình thủy điện lớn cuối cùng của đất nước được xây dựng, không những có vai trò quan trọng trong việc phát điện cung cấp cho đất nước, tham gia cấp nước cho đồng bằng sông Hồng về mùa kiệt mà còn tạo cơ hội góp phần phát triển kinh tế – xã hội hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực Tây Bắc.
P1 sưu tầm từ Web Genco2